Chú thích Dương_Hùng_(Tây_Hán)

  1. Nay là trấn Hữu Ái, huyện , địa cấp thị Thành Đô, Tứ Xuyên
  2. Tam tự kinh, câu 171 ÷ 174: "Ngũ tử giả. Hữu Tuân, Dương. Văn Trung tử. Cập, Lão, Trang." (Tuân tử là Tuân Khanh, Văn Trung tử là Vương Thông (nhà Tùy))
  3. Đoạn này có nhiều chi tiết không chính xác, như: Dương thị xưng hầu, họ Dương bị các khanh sĩ nước Tấn bức chạy sang nước Sở,... Căn cứ vào Sử ký và Tả truyện, công tử Bá Kiều là con trai của Tấn Vũ công. Cháu nội của Bá Kiều là Đột, được làm Trung quân úy, ăn lộc thái ấp ở đất Dương Thiệt thời Tấn Hiến công (cũng là con của Tấn Vũ công), sử cũ quen gọi là Dương Thiệt đại phu. Con trai Dương Thiệt đại phu (hay Dương Thiệt Đột) là Dương Thiệt Chức làm Tá của Trung quân úy Kỳ Hề thời Tấn Điệu công. Chức có năm con trai: Xích tự Bá Hoa, Hật tự Thúc Hướng hay Thúc Dự, Phụ tự Thúc Ngư, Hổ tự Thúc Hổ và Quý Túc. Xích được nối chức của cha, Hật là người nổi tiếng nhất, tuy chưa từng được dự vào lục khanh của nước Tấn, nhưng về mặt trí tuệ được sánh với các danh thần Tử Sản, Yến Anh. Hật có thái ấp riêng là đất Dương (nay là đông nam Hồng Động, Sơn Tây), vì thế trở thành người đứng đầu của thị tộc Dương, sử cũ có chỗ gọi là Dương Hật, Dương Dự. Hật lấy vợ là con gái của Vu ThầnHạ Cơ, sinh ra con trai là Dương Thiệt Thực Ngã, Thực Ngã giao hảo với Kỳ Doanh (cháu nội Kỳ Hề, con Kỳ Ngọ), Kỳ Doanh bị Tấn Khoảnh công giết, Thực Ngã bị liên lụy, sau đó 2 thị tộc Kỳ, Dương Thiệt đều bị diệt. Con cháu của Thúc Hướng trốn vào Hóa Sơn, về sau định cư ở Hoằng Nông, Hoa Âm, gầy dựng nên sĩ tộc họ Dương vô cùng thịnh vượng từ đời Hán đến đời Đường (hoàng tộc nhà Tùy tự nhận là thành viên của sĩ tộc này)
  4. Nguyên văn: 聖哲/thánh triết, tức là thánh nhân hoặc hiền nhân có tài đức, tu dưỡng đạt đến cảnh giới tối cao. Lưu Hiệp (nhà Lương)Văn tâm điêu long có câu: “Di huấn của thánh triết gọi là kinh.”
  5. Chi tiết này gây mâu thuẫn. Căn cứ vào Hán thư, tlđd, Dương Hùng được 40 tuổi vào năm 13 TCN, mà Vương Âm mất năm 15 TCN. Sử gia cận đại Tiền Đại Hân ước đoán Hùng được Âm tiến cử vào năm 16 TCN
  6. Đinh thị là bà nội, Phó thị là hoàng hậu, Đổng Hiền là sủng nam của Ai đế
  7. 符命/phù mệnh, nghĩa là điềm báo (phù triệu) cho biết một người được trời cao tuyển định để tiếp nhận mệnh số làm đế vương (thụ mệnh), ở đây là một thể loại văn học, nhằm ca tụng công đức của kẻ ấy
  8. 上公/Thượng công, ý nói tam công trở lên. Đời Tây Hán có Thái sư, Thái phó, Thái bảo được gọi là Thượng công, phần lớn đời Đông Hán chỉ có Thái phó được gọi là Thượng công, nhưng không thường đặt, đến tận cuối đời Đông Hán mới có Đổng Trác làm Thái sư. Từ khi Tào Tháo chuyên quyền đến trọn đời Tào Ngụy, Đại tư mã và Đại tướng quân đều được gọi là Thượng công
  9. Gác Thiên Lộc ở phía bắc đại điện của cung Vị Ương. Theo nhà sử học Trần Trực (陈直, 1901 – 1980), di chỉ của gác Thiên Lộc ngày nay cách Lưu Gia Trại, khu Vị Ương, địa cấp thị Tây An chừng 1 dặm về phía bắc (khu Vị Ương có nhiều địa phương là di chỉ của cung Vị Ương, ở vị trí vừa nêu tìm được ngói vẽ của gác Thiên Lộc)
  10. Nhà Tần gọi việc tra án là 治狱/Trị ngục, gọi việc thẩm vấn là 讯狱/Tấn ngục, ý nghĩa rất gần nhưng mức độ rất khác
  11. Nguyên văn: 乐道/lạc đạo, tức là vui vẻ với đạo của thánh hiền. VD: Sử ký quyển 67, liệt truyện 7 – Trọng Ni đệ tử liệt truyện: “Tử Cống hỏi rằng 'Giàu mà không kiêu, nghèo mà không nịnh, được chăng?' Khổng tử nói: 'Có thể; nhưng không bằng nghèo mà lạc đạo, giàu mà hảo lễ.'”
  12. Thương hiệt thiên (苍颉篇) là tên gọi chung của những bộ kinh điển được trước tác vào đời Tần. Sau khi diệt 6 nước, Tần Thủy Hoàng thống nhất chữ viết, lấy Thương hiệt thiên của Lý Tư (vốn có 7 chương), Viên lịch của Triệu Cao và Bác học của Hồ Vô Kính làm tiêu chuẩn. Đầu đời Hán, triều đình tập hợp 3 tác phẩm này, cả thảy 3055 chương, sau khi chỉnh lý còn hơn 3300 chữ, gọi chung Thương hiệt thiên. Huấn toản thiên của Dương Hùng ngày nay không còn
  13. 箴/châm, là bài văn được viết ra giấy hay khắc vào gỗ, treo chung quanh chỗ ở để trông làm gương. Ngu châm là bài châm do người nước Ngu sáng tác, nhằm can ngăn việc săn bắn của Chu Vũ vương, xuất xứ ở Tả truyện, Tương công năm thứ 4. Nhan Sư Cổ dẫn Tấn Chước (晋灼) chú: “(Châu châm) là bài châm của Cửu châu đấy.” (Cửu châu tức là Trung Nguyên, ở đây Nhan Sư Cổ chỉ muốn làm rõ nghĩa của chữ ‘châu’)
  14. Nhan Sư Cổ chú: “Từ mục lục của Pháp ngôn về trước, văn của bài tựa đều là do Hùng tự làm.”
  15. Hán thư quyển 30, chí 10 – Nghệ văn chí: “Bài tựa do Dương Hùng làm có 38 thiên. (Thái huyền có 19, Pháp ngôn có 13, Nhạc có 4, Châm có 2.)”
  16. Mốc thời gian căn cứ vào Hán thư quyển 10, bản kỷ 10 – Thành đế kỷ: “Tháng giêng, mùa xuân năm (Nguyên Duyên) thứ 2, đi hạnh Cam Tuyền, giao Thái Trĩ.”
  17. Nay là tây nam huyện Vạn Vinh, địa cấp thị Vận Thành, Sơn Tây
  18. Nhan Sư Cổ chú: “Điện Thừa Minh ở cung Vị Ương.”
  19. 离宫/ly cung là cung thất mà hoàng đế tạm cư trú khi xuất tuần. Nhan Sư Cổ chú Hán thư quyển 51, liệt truyện 21 – Giả Trâu Mai Lộ truyện, Giả Sơn: “Phàm nhắc đến ly cung ấy, đều có ý nói đặt ở nơi biệt xứ, không phải chỗ quen vậy.” Ly cung này theo Nhan Sư Cổ chú: “Vốn là cung Lâm Quang của nhà Tần.”
  20. Nhan Sư Cổ chú: “Cung Đường Lê ở bên ngoài uyển viên của Cam Tuyền, cung Sư Đắc ở địa giới của Lịch Dương, kỳ dư đều là cung, quán bên trong uyển viên của Cam Tuyền.”
  21. Sau 14 năm của giai đoạn Chu Triệu cộng hòa, Chu Tuyên vương lên ngôi, một trong những việc đầu tiên của ông là trùng tu cung thất. Sau 5 lần dời đô, Bàn Canh ổn định nhà Thương ở đất Bạc. Đây là những việc cấp thiết phải làm
  22. Ý nói Hạ Vũ sanh hoạt tiết kiệm nhưng hợp lý. Luận ngữ, thiên Thái bá, tiết 21: “Khổng tử nói: Vũ, tôi chẳng có chỗ nào chê cả! Ăn uống đạm bạc, nhưng cúng tế quỷ thần trọng hậu; áo quần xấu xí, nhưng sửa soạn lễ phục trang trọng, cung thất nhỏ hẹp nhưng mở rộng ngòi lạch hết sức. Vũ, tôi chẳng có chỗ nào chê cả!”
  23. Nguyên văn: “Đường, Ngu thải chuyên, tam đẳng chi chế dã.” Đường tức là Đế Nghiêu, Ngu tức là Đế Thuấn. Nhan Sư Cổ chú: “棌/thải, là xẻ gỗ (chuyên nghĩa là rui mè). 三等/tam đẳng/ba bực, tức là 土阶三等/thổ giai tam đẳng/ba bực thềm đất, ý nói không quá (ba bực) vậy.” Hà Hưu (何休) chú Công Dương truyện (公羊传) – Trang công năm thứ 13: “Nền đất 3 thước, thềm đất 3 bực, gọi là đàn.”
  24. Pháp giá là đội ngũ có quy mô nhỏ trong một chuyến xuất hành của hoàng đế
  25. Nguyên văn: “…tại thuộc xa gian báo vĩ trung.” Nhan Sư Cổ dẫn Phục Kiền (服虔) chú: “Thuộc xa của đại giá có 81 cỗ, (chia) làm 3 hàng, thượng thư, ngự sử cưỡi chúng. Cỗ xe cuối cùng treo đuôi báo, (xe có) đuôi báo trở về trước là (dành cho người) trong tỉnh (tức triều đình).” Thuộc xa là xe chở tùy tùng, đại giá là đội ngũ có quy mô lớn trong một chuyến xuất hành của hoàng đế, đuôi báo là vật trang sức treo trên tinh kỳ
  26. Nguyên văn: “…车骑之众, 参丽之驾/xa kị chi chúng, tham lệ chi giá…” 驾/giá trong pháp giá hay đại giá; 参丽/tham (tham dự) lệ (bám dính), sử cũ còn gọi tham giá hay lệ giá, tức là tùy tùng của hoàng đế trong chuyến xuất hành
  27. Nguyên văn: “...感动天地, 逆厘三神/cảm động thiên địa, nghịch ly tam thần...” Lý Thiện chú Văn tuyển (文选) – Dương Hùng, Cam Tuyền phú dẫn Phục Kiền rằng: “Ly, là 福/phúc (tốt, lành) đấy.”, dẫn Vi Chiêu rằng: “Nghịch, là 迎/nghênh (đón, rước). Đón nhận phúc ly đấy. Ly, âm 熙/hi.” Tam thần là Thiên thần, Địa kỳ (tức là thần đất) và Sơn nhạc
  28. Mốc thời gian căn cứ vào Thành đế kỷ, tlđd: “Tháng ba, đi hạnh Hà Đông, từ Hậu Thổ.”
  29. Nhan Sư Cổ chú: “Giới Sơn ở đông bắc Phần Âm.”
  30. Tên huyện, nay là tây bắc huyện Hạ, địa cấp thị Vận Thành, Sơn Tây
  31. Tên núi. Nhan Sư Cổ chú: “Núi Long Môn nay là phía bắc huyện Long Môn, Bồ Châu.” Nay nằm giữa huyện cấp thị Hàn Thành, địa cấp thị Vị Nam, Thiểm Tây và huyện Hà Tân, địa cấp thị Vận Thành, Sơn Tây
  32. Nhan Sư Cổ chú: “Diêm Trì nay là phía nam huyện An Ấp, Ngu Châu.” Nay là phía nam huyện Hạ, địa cấp thị Vận Thành, Sơn Tây
  33. Tức là cửa quan trên Lịch Sơn. Nhan Sư Cổ chú: “Trên Lịch Sơn có cửa quan.” Dẫn Tấn Chước rằng: “Ở huyện Bồ Phản, Hà Đông.” Nay là đông nam Vĩnh Tế, địa cấp thị Vận Thành, Sơn Tây
  34. Nhan Sư Cổ chú Hán thư quyển 31, liệt truyện 1 – Trần Thắng Hạng Tịch truyện, Hạng Tịch: “Bát hoang, là đất bỏ hoang và cực xa ở 8 phương đấy.”
  35. Nguyên văn: 迹殷周之墟/tích Ân Chu chi khư
  36. Nguyên văn: 眇然以思唐虞之风/miễu nhiên dĩ tư Đường Ngu chi phong. Nhan Sư Cổ chú Hán thư quyển 64, liệt truyện 34 – Nghiêm Chu Ngô Khâu Chủ Phụ Từ Nghiêm Chung Vương Giả truyện, Vương Bao: “眇然/miễu nhiên, ý nói cao xa đấy.”
  37. Nhan Sư Cổ chú: “Đô thành nhà Ân ở Hà Nội, của nhà Chu ở Kỳ Phong, của Đế Nghiêu ở Bình Dương, của Đế Thuấn ở Bồ Phản, đều có thể mường tượng trông thấy, nên mới nói ‘tích Ân Chu chi khư, tư Đường Ngu chi phong’ đấy.”
  38. Mốc thời gian căn cứ vào Thành đế kỷ, tlđd: “Mùa đông, đi hạnh Trường Dương cung, đem theo Hồ khách tiến hành Đại hiệu liệp.”
  39. Nhan Sư Cổ dẫn Phục Kiền chú: “Sĩ phụ vũ.” Phụ vũ, đầy đủ là 背负羽箭/bối phụ vũ tiễn/lưng vác tên (vũ tiễn: cây tên; vũ: lông chim; nhân vì ngù tên cắm lông chim nên mới có tên gọi như vậy). Hoàng đế săn bắn, sĩ tốt vác túi tên theo hầu (tức là Phụ vũ), nên gọi cuộc săn của hoàng đế là Vũ liệp
  40. Nhan Sư Cổ dẫn Ứng Thiệu (应劭) chú: “Nhị đế: Nghiêu, Thuấn; Tam vương: Hạ, Ân, Chu.
  41. 宮館/cung quán: nhà cửa (quán xá) trong phạm vi của tòa cung điện (cung thành)
  42. 臺榭/đài tạ. Đài là một tấm sàn được đặt cao hơn mặt đất; tạ là đài có mái che (VD: thủy tạ)
  43. 沼池/chiểu trì. Chiểu hay Trì đều có nghĩa là là cái ao, nhưng Chiểu thường có hình cong, còn Trì là có nhiều hình dạng hơn
  44. 苑囿/uyển hữu. Uyển hay Hữu đều có nghĩa là khu vườn có nuôi thú
  45. 林麓/lâm lộc. Lâm nghĩa là rừng, Lộc (đầy đủ là Sơn lộc) nghĩa là chân núi; lâm lộc là chân núi bị bao trùm bởi khu rừng.
  46. 藪澤/tẩu trạch. Tẩu hay Trạch đều có nghĩa là con chằm hay con đầm
  47. 郊廟/giao miếu, là nơi thiên tử đời xưa cúng tế trời đất, tổ tiên
  48. Nguyên văn: 上下交足/thượng hạ giao túc. Nhan Sư Cổ chú: “Thượng (trên), là núi đấy. Hạ (dưới), là đất bằng đấy.” Giao túc nghĩa là hai chân bắt chéo nhau. Ý nói nhân dân cả nước có thể nhàn nhã mà nghỉ ngơi
  49. Nhan Sư Cổ chú: “Ích, tên bề tôi đấy. Ngu, là quan coi núi, chằm đấy.”
  50. Tên vườn. Nhan Sư Cổ chú: “Nghi Xuân gần Hạ Đỗ...” Nay là phía nam khu Trường An, địa cấp thị Tây An, Thiểm Tây (huyện Hạ Đỗ nay là một dải thuộc thôn Tân Nhai Bắc, nhai đạo Thái Ất Cung, khu Trường An)
  51. Nhan Sư Cổ dẫn Tấn Chước rằng: "Đỉnh Hồ, là cung đấy. Hoàng đồ (tức Tam Phụ hoàng đồ) cho rằng ở Lam Điền." Nay là huyện Lam Điền, địa cấp thị Tây An
  52. Tên vườn. Nhan Sư Cổ chú: “...Ngự Túc ở phía tây Phiền Xuyên đấy.” Nay thuộc khu Trường An
  53. Nhan Sư Cổ chú: “Côn Ngô, là địa danh đấy, có đình.” Nay thuộc huyện Lam Điền
  54. Nhan Sư Cổ chú Hán thư quyển 57 thượng, liệt truyện 27 thượng – Tư Mã Tương Như truyện thượng: “Nam Sơn, là núi Chung Nam đấy.”
  55. Đều là tên cung, di chỉ nay là phía nam huyện Chu Chí, địa cấp thị Tây An
  56. Tên cung, nay là tây nam huyện cấp thị Hưng Bình, địa cấp thị Hàm Dương, Thiểm Tây
  57. Nguyên văn: 穿昆明池象滇河/xuyên Côn Minh trì tượng Điền hà. Điền hà tức là Điền trì ở Vân Nam, còn gọi là hồ Côn Minh. Côn Minh trì là cái ao do Hán Vũ đế cho đào ở chỗ giao phía tây nam của kinh đô Trường An vào năm 120 TCN, dành để luyện tập thủy chiến. Ao có chu vi 40 dặm, rộng 332 khoảnh, đến đời Tống thì không còn (xem Hán thư quyển 6, bản kỷ 6 – Vũ đế kỷ: “(Mùa xuân năm Nguyên Thú thứ 3)...khiến quan lại (chịu tội) lưu đày đào Côn Minh trì...”). Nhan Sư Cổ dẫn Thần Toản (臣瓒) chú: “Tây Nam Di truyện có nước Việt Tủy, Côn Minh, có Điền trì, 300 dặm vuông. Hán sứ tìm nước Thân Độc, nhưng bị Côn Minh ngăn chặn. Nay muốn phạt họ, nên làm Côn Minh trì mô phỏng nó, để tập thủy chiến, ở tây nam Trường An, chu vi 40 dặm.”
  58. Kiến Chương, Phượng Khuyết, Táp Sa là cung. Thần Minh, Tiệm Đài là đài. Thái Dịch là ao (trì), Nhan Sư Cổ chú: “Tiệm Đài ở trong Thái Dịch trì. Tiệm, là 浸/tẩm/tắm đấy. Ý nói nước ao để tắm đấy.”
  59. Phương Trượng (方丈), Doanh Châu (瀛洲), Bồng Lai (蓬莱) là 3 hòn đảo ngoài bể Bột Hải trong thần thoại Trung Quốc, tương truyền là nơi ở của tiên
  60. 田车/điền xa, nghĩa là xe dành cho việc săn bắn. Chu HyThi tập truyện (诗集传) 5, tiết Thải khỉ tứ chương chương thập nhị cú: “田车, 田猎之车/điền xa, điền liệp chi xa.” Điền liệp nghĩa là săn bắn (VD: Tam quốc chí quyển 52, Ngô chí quyển 7 – Trương Cố Gia Cát Bộ truyện: Trương Chiêu truyện: “(Tôn) Quyền mỗi khi ‘điền liệp’, thường cưỡi ngựa bắn cọp.”)
  61. 储偫/trữ trì, nghĩa là tồn trữ vật tư, nhu yếu
  62. 禁御/cấm ngự, tức là cấm uyển
  63. 三驱/tam khu. Nhan Sư Cổ chú: “Tam khu, bực của săn bắn đời xưa đấy. Một là biên đậu, hai là tân khách, ba là đầu bếp sung quân đấy.” 笾豆/biên đậu, Biên và Đậu là hai loại đồ dùng để chứa thực phẩm trong hoạt động cúng tế đời xưa; Biên làm bằng tre, Đậu làm bằng gỗ
  64. Nguyên văn: “bất chiết trung dĩ Tuyền Đài”. Nhan Sư Cổ dẫn Phục Kiền chú: “Lỗ Trang Công xây Tuyền Đài, trái lễ đấy, đến Văn Công hủy đi, Công Dương chê rằng: ‘Tiên tổ làm ra mà hủy đi, chớ ở mà thôi.’ Nay Dương Hùng cho rằng cung quán đã nhiều, chẳng phải Thành đế tạo ra, chớ sửa sang mà thôi, đối với Tuyền Đài nên chiết trung đấy.”
  65. Nguyên văn: 校猎/hiệu liệp. Nhan Sư Cổ chú: “Hiệu liệp là cuộc săn lớn, vây bắt cầm thú đấy.”
  66. Hữu Phù Phong (右扶风) là đơn vị hành chánh phụ cận kinh thành và cũng là tên gọi của quan chức phụ trách hành chánh sự vụ của đơn vị này, trị sở đặt tại Trường An
  67. Nhan Sư Cổ chú: “Bao, Da là tên của 2 cốc (tức là hang) của Nam Sơn đấy. Hán Trung, nay là Lương Châu đấy. Âm của 斜/da được phiên thiết là 弋/dặc + 奢/xa.” Hoằng Nông là tên quận, trị sở tại huyện Hoằng Nông, nay là phía bắc huyện cấp thị Linh Bảo, địa cấp thị Tam Môn Hiệp, Hà Nam; Hán Trung là tên quận, trị sở tại huyện Tây Thành, nay là khu vực từ địa cấp thị An Khang, Thiểm Tây, kéo dài 4 dặm theo hướng tây bắc đến bờ bắc Hán Thủy
  68. Nguyên văn: 罗/la 罔/võng 罝/ta 罘/phù. La: lưới bắt chim; võng: lưới bắt cá; ta, phù: đều là lưới bắt thỏ, ngoài ra “ta phù” còn là lưới bắt cầm thú nói chung
  69. Nguyên văn: 熊/hùng (gấu) 罴/bi (gấu nâu) 豪/hào (lợn rừng) 猪/trư (lợn) 虎/hổ (cọp) 豹/báo (beo) 狖/dứu (một giống khỉ lớn) 玃/quắc (một giống khỉ lớn khác) 狐/hồ (cáo) 兔/thỏ 麋/mi (nai) 鹿/lộc (hươu). Nhan Sư Cổ chú: “Dứu tựa di hầu (một giống khỉ lớn), đuôi dài ngẩng cao ngang mũi. Quắc cũng là một giống di hầu, tay dài giỏi đánh nhau. Quắc mình dài, lông vàng. Âm của 玃 là 钁/quắc.”
  70. Nhan Sư Cổ chú: “Trường Dương là tên cung đấy, ở huyện Chu Chất, trong đó có Xạ Hùng quán.” Nay là huyện Chu Chí, địa cấp thị Tây An, Thiểm Tây (Chu Chất đổi là Chu Chí từ năm 1964)
  71. Nhan Sư Cổ dẫn Lý Kỳ (李奇) chú: “阹, bày ra để chặn cầm thú đấy.” Sư Cổ chú: “阹, âm là 袪/khư.” Chu khư là chuồng quây để thả cầm thú vào đấy
  72. Đinh thị là bà nội, Phó thị là hoàng hậu, Đổng Hiền là sủng nam của Ai đế
  73. Nhan Sư Cổ chú: “Huyền là màu đen đấy. Ý nói Hùng làm mà không xong, màu vẫn còn trắng, bởi thế không có lộc, vị đấy.” Trắng ở đây tức là trắng/bạch trong “bạch y” – kẻ thứ dân áo vải, không có quan chức
  74. Nhan Sư Cổ chú: “Tích tụng, Hoài sa là tên gọi các chương trong số 9 chương do Khuất Nguyên làm ra.”
  75. Nhan Sư Cổ dẫn Lý Cơ chú: “畔/bạn, là 离/ly (chia lìa) đấy. 牢/lao, là 聊/liêu (无聊/vô liêu nghĩa là buồn bã vì cô đơn) đấy. 与君相离, 愁而无聊也/dữ quân tương ly, sầu nhi vô liêu (cùng anh ly biệt, buồn mà quạnh hiu) đấy.”
  76. Bạn lao sầu, Quảng tao ngày nay đều không còn
  77. Nguyên văn: 惟寂寞, 自投阁; 爰清静, 作符命/duy tịch mịch, tự đầu các; viên thanh tĩnh, tác Phù mệnh. Nhan Sư Cổ chú: “Lấy lời trong Giải trào của Hùng để chê bai ông.” Theo Thẩm Khâm Hàn (沈钦韩), ấy là bởi Dương Hùng từng tham gia làm văn Phù mệnh cho Vương Mãng, tức là nói đến bài văn Kịch Tần mỹ Tân chứ không phải Giải trào, nhưng khi xưa không được thưởng, đến nay lại gặp vạ
  78. Hán thư quyển 98, liệt truyện 68 – Nguyên hậu truyện: “Thái hậu được 84 tuổi. Ngày quý sửu tháng 2, năm Kiến Quốc thứ 5, băng. Ngày ất dậu tháng 3, hợp táng Vị lăng. Mãng chiếu đại phu Dương Hùng làm bài lụy rằng:...”
  79. Nguyên văn (2 vế cuối): 既乃归之於正, 然览者已过矣/ký nãi quy chi vu chánh, nhiên lãm giả dĩ quá hĩ. Nhan Sư Cổ chú: “Ý nói cuối đời quay về với chánh đạo, nên nhìn lại, nhưng chỉ thấy phù phiếm, mà vô ích cho việc nói thác can ngăn đấy.”
  80. Nguyên văn: 帝反缥缥有陵云之志/đế phản phiếu phiếu hữu lăng vân chi chí. Hán thư quyển 57, liệt truyện 27 – Tư Mã Tương Như truyện: “相如 既奏 ‘大人’ 之颂, 天子大说, 缥缥有凌云之气, 似游天地之闲意/Tương Như ký tấu ‘Đại Nhân’ chi tụng, thiên tử đại thuyết, phiếu phiếu hữu lăng vân chi khí, tự du thiên địa chi nhàn ý/Tương Như dâng lên Đại Nhân phú để ca tụng, thiên tử vui lắm, phơi phới có cái khí lên mây, tựa như tâm tình nhàn rỗi vui chơi thiên hạ.” Mục từ “Xông mây” trang 459, Long Điền Nguyễn Văn Minh – Từ điển văn liệu, 1952, Ấn bản in lần thứ 2 giải thích: “Bốc lên mây, do sách Hán Sử có câu rằng: ‘phiêu phiêu hữu lăng vân chi khí’, nghĩa là phơi phới có cái khí lên đến mây. Nghĩa bóng nói chí khí cao xa khác người. VD: Tôn Ngô bẩy quyển làu thông, đè sóng, xông mây là chí khí – Đặng Trần Thường (Hàn vương tôn phú).” Xem thêm trên website của Thư viện quốc gia Việt Nam, tại đây (truy cập ngày 19/7/2016)
  81. Nhan Sư Cổ chú: “Khôn, Mạnh đều hoạt kê.” Thuần Vu Khôn, Ưu Mạnh là hai trong số các nhân vật chính của Sử ký quyển 126 – Hoạt kê liệt truyện
  82. Pháp độ tức là pháp lệnh + chế độ. VD: Sử ký quyển 6 – Tần Thủy Hoàng bản kỷ: “古之五帝三王, 知教不同, 法度不明, 假威鬼神, 以欺远方, 实不称名, 故不久长./Cổ chi Ngũ đế Tam vương, tri giáo bất đồng, pháp độ bất minh, giả uy quỷ thần, dĩ khi viễn phương, thật bất xưng danh, cố bất cửu trường./Ngũ đế Tam vương đời xưa, hiểu biết và mệnh lệnh không thống nhất, pháp lệnh và chế độ không rõ ràng, mượn oai làm quỷ thần, để lừa dối phương xa, thật không xứng với danh, nên không được lâu dài.”
  83. Nhan Sư Cổ chú: “Hồn thiên, là thiên tượng đấy.” Hồn thiên (浑天说, Hồn thiên thuyết) là một trong những học thuyết về vũ trụ ở Trung Quốc đời xưa, tác phẩm quan trọng nhất là Hồn thiên nghi chú (浑天仪注) của Trương Hành. Theo Trương Hành, trời (thiên) là một quả cầu lớn, bao bọc đất (địa) là quả cầu nhỏ, như quả trứng bao bọc lòng đỏ trứng vậy
  84. Nhan Sư Cổ dẫn Tô Lâm (苏林) chú: “Tam (mô) rồi Tứ phân thứ tự độ số của tinh tú trên trời đấy.” Theo Lưu Sưởng (刘敞), Tam mô là Huyền thủ 1, 2, 3: thiên, địa nhân, Tứ phân là Tứ trọng: phương, châu, bộ, gia (xem tiếp bài viết sẽ rõ)
  85. Nhan Sư Cổ dẫn Tấn Chước chú: “据/cư cũng như 位/vị đấy, vị trí đấy.” Tam mô sanh Cửu cư hay Cửu vị, 3 vị của Thiên gọi là thủy, trung, chung, 3 vị của Địa gọi là hạ, trung, thượng, 3 vị của Nhân gọi là tư, phúc, họa
  86. Thiên nguyên là các Thiên can trong Tứ trụ (Tứ trụ tức là niên (năm), nguyệt (tháng), nhật (ngày), thời (giờ); Thiên can tức là thập can)
  87. Lịch Thái Sơ (太初历, Thái Sơ lịch) là bộ lịch do bọn Đặng Bình, Đường Đô, Lạc Hạ HoànhTư Mã Thiên làm ra, được sử dụng ở Trung Quốc cổ đại từ năm Thái Sơ đầu tiên (104 TCN) thời Hán Vũ đế, đến năm Nguyên Hòa thứ 2 (85 TCN) thời Hán Chương đế, bị thay thế bởi lịch Tam Thống của Lưu Hâm. Lịch này lấy tháng giêng làm đầu năm
  88. Lịch Chuyên Húc (颛顼历, Chuyên Húc lịch) là một loại lịch âm dương do nước Tần làm ra, ước đoán vào đời Tần Hiến công đầu thời Chiến Quốc, sau khi Tần Thủy Hoàng diệt 6 nước thì lưu hành khắp cõi, bị thay thế bởi lịch Thái Sơ. Lịch này lấy tháng 10 làm đầu năm
  89. Nguyên văn: tam sách. Nhan Sư Cổ dẫn Tô Lâm (苏林): “3 x 3 mà chia ra.”
  90. Nguyên văn: 无主无名/vô chủ vô danh (vô chủ: không có người lãnh đạo; vô danh: không có lý do). Ý nói không có căn cứ
  91. Nguyên văn: 曼漶/mạn hoán. Nhan Sư Cổ dẫn Trương Ấp (张揖) chú: “Mạn âm 满/mãn. Hoán âm 缓/hoãn.” Nhan Sư Cổ chú: “Mạn hoán, không phân biệt được diện mạo, cũng như nói mơ hồ đấy. Âm của 曼 phiên thiết 莫/mạc + 干/can. Âm của 漶 là 奂/hoán.”
  92. Nguyên văn: 离散其文, 章句尚不存焉/ly tán kỳ văn, chương cú thượng bất tồn yên. Nhan Sư Cổ chú: “Văn của Huyền dù có chương cú, ý tứ thâm diệu, ngõ hầu không thể xét hết, nên giải thích thì tách riêng đấy.” 章句/chương cú, đầy đủ là 剖章析句/tách chương chia câu, nghĩa là chú thích. (Bởi Hán văn đời xưa không có dấu để tạm dừng, cũng không phân chương, đoạn để ngắt mạch) các nhà Kinh học (经学) xem việc ‘tách chương chia câu’ là một phương thức để giải thích kinh nghĩa. Ở đây Dương Hùng cho rằng khối lượng chú thích quá lớn, nên tách ra, hiện nay không còn (Tùy thư quyển 34, chí 29 – Kinh tịch 3: “Đời Lương có Dương tử Thái huyền kinh, 9 quyển, Dương Hùng tự làm chương cú, đã mất.”).
  93. Nhan Sư Cổ chú: “Ý nói sách của chư tử, đại khái đều phỉ báng lời dạy của Chu (Công) Khổng (tử), dùng lời xảo biện khác lạ gây rối loạn chánh trị đương thời.”
  94. Nguyên văn: 讫麟止/cật (xong, sau cùng) lân (con kỳ lân) chỉ (dừng lại). Sử ký chép đến sự kiện Hán Vũ đế bắt được con lân ở đất Ung thì dừng, nên đời sau lấy “lân chỉ” làm điển cố, ý nói tuyệt bút (dứt bút)
  95. Hán thư, tlđdHán thư – Nghệ văn chí đều không nhắc đến Phương ngôn. Tài liệu sớm nhất nhắc đến mối liên quan giữa Dương Hùng và tác phẩm này là bài tựa của tác phẩm Ứng Thiệu (应劭) – Phong tục thông nghĩa (风俗通义), kể rằng người Thục là Nghiêm Quân Bình sưu tầm hơn 1000 chữ, người Lâm Lư là Ông Nhụ Tài sưu tầm một cách sơ lược, Hùng ưa thích, bèn hỏi han Hiếu liêm và kẻ sĩ các nơi, trải qua 27 năm, sưu tầm được hơn 9000 chữ
  96. Phạm Thuân (范逡), người quận Phù Phong, đồng hương của Đỗ Lâm (杜林), xuất hiện ở Hậu Hán thư quyển 27, liệt truyện 17 – Đỗ Lâm truyện
  97. Nguyên văn: tuyệt luân
  98. Xem chương 10, Nguyễn Hữu Quang – Hán Việt Dịch sử lược, Tủ sách Việt Chi, Ottawa, 2009
  99. Nhan Sư Cổ chú: “Ý nói Thành đế tìm xem di tích các triều đại trước, riêng muốn sửa sang đức hiệu của mình, nên Hùng dẫn chứng từ hưng đến trị, để làm ví dụ cho lề thói đời Đế Hoàng.”